Để những chuyến tàu chi viện đến với miền Nam an toàn, có sự đóng góp to lớn của đường dây tình báo trên biển. Câu chuyện của cựu chiến binh Nguyễn Hoảnh (84 tuổi, trú tại xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước) sẽ làm rõ hơn phần nào chiến công thầm lặng của họ - những chiến sĩ thuộc Đội thuyền 128.
Cựu chiến binh Nguyễn Hoảnh.
Tham gia cách mạng từ năm 1949, Nguyễn Hoảnh - chàng trai làng biển Tỉnh Thủy, Tam Thanh (Tam Kỳ) theo đoàn cán bộ tập kết ra Bắc và được biên chế vào Nông trường chè Phú Thọ. Một hôm có người từ Tổng cục II (Bộ Quốc phòng) về tận đơn vị tìm hiểu và quyết định triệu tập ông về Hà Nội tham gia lớp tập huấn chuẩn bị cho nhiệm vụ mới. Ông Hoảnh kể, lúc ấy chỉ biết là được giao một nhiệm vụ đặc biệt chứ cụ thể thế nào không rõ. Mãi đến đầu năm 1963, khi cùng 6 chiến sĩ khác được giao một chiếc thuyền buồm với nhiệm vụ đi vào Nam hoạt động đơn tuyến, ông cũng chỉ nhận được mệnh lệnh trực tiếp từ thuyền trưởng Trần Tấn Mới (vì nguyên tắc bí mật, trong tổ phần ai biết việc người nấy, thậm chí tên của mỗi người cũng được thay bằng các con số như một, hai, ba…).
Khi nhắc đến Đoàn tàu không số, ông Hoảnh khiêm tốn cho rằng những người tiền trạm như ông chưa phải là lực lượng trực tiếp chi viện cho chiến trường miền Nam. Theo dòng hồi ức, vào những năm cuối thập niên 50, đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, đơn vị ông với tên gọi là “Tổ tiên phong” chỉ dùng những chiếc thuyền nan có trọng tải chừng vài tấn chống chọi với sóng dữ và sự kiểm soát gắt gao của địch để hoàn thành nhiệm vụ. “Tôi là dân biển chính hiệu, lại đang ở tuổi thanh niên, vậy mà đi những chuyến này có khi say sóng tới hai ba ngày, người cứ quắt lại như con tôm khô. May là sức lực tuy cạn kiệt nhưng tinh thần vẫn hăng hái lắm” - ông kể.
Mười năm trời lênh đênh trên biển, ông không còn nhớ mình đã đi bao nhiêu chuyến, chỉ mang máng nhớ rằng năm nào cũng đi 2 - 3 chuyến, mỗi chuyến kéo dài 1 - 2 tháng, có chuyến kéo dài đến 6 tháng. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Thịnh (quê huyện Kiến Thụy, tỉnh Thái Bình) nhớ lại: “Tôi với ổng kết hôn năm sáu bảy (năm 1967 - NV). Từ đó tôi cứ sống trong tâm trạng phấp phỏng lo âu, không biết chồng mình sống chết thế nào. Vì nhiệm vụ cách mạng, tôi phải giấu cả người thân trong gia đình về công việc của chồng. Tôi phải nói tránh rằng ông ấy làm cán bộ ở Trạm khí tượng thủy văn thường hay đi công tác, lâu lâu mới về một lần. Nhớ nhất là vào năm sáu chín, cha tôi mất, bà con họ hàng cứ hỏi rể con ở đâu mà không về chịu tang, tôi phải nói dối rằng chồng mình đang đi học ở Nghệ An. Mãi đến 6 tháng sau ổng mới về thắp hương cáo lỗi”.
Đội thuyền 128 (đường dây tình báo trên biển) được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thành lập vào năm 1956, ban đầu chỉ có 2 tổ được trang bị thuyền nan, chạy bằng buồm, sau phát triển thành 26 tổ trang bị thuyền máy. Toàn lực lượng có 183 chiến sĩ, có nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc tình báo từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc, tổ chức thực hiện các việc phái khiển cán bộ cơ động đi theo kế hoạch của cấp trên. Từ khi thành lập đến tháng 4.1975, Đội thuyền 128 đã tổ chức được 263 chuyến đi, riêng “Tổ tiên phong” thực hiện 46 chuyến. Đã có 10 chiến sĩ trong đội hy sinh, 43 người bị địch bắt tù đày. Đội 128 đã được tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vào năm 1970.
Khác với các đơn vị thuộc tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển khi cập bờ được bắt liên lạc với cơ sở, đơn vị của ông chỉ được hẹn ngày giờ và địa điểm để khỏi bị lộ. Ông Hoảnh bảo rằng, thường mỗi chuyến đi phải có vài địa điểm dự phòng để nếu không cập được bến này sẽ chuyển sang bến khác. Cũng kín đáo như vậy, cơ sở đón đoàn ở nơi này thì khi trở ra lại chuyển đến địa điểm khác. Ví dụ đón ở Phan Thiết nhưng trở ra lại ở bến Sông Cầu…
Ngoài nhiệm vụ nắm bắt tình hình địch trên biển, đơn vị ông còn đưa đón cán bộ từ miền Bắc vào miền Nam chỉ đạo, rồi lại đưa cán bộ nắm tình hình từ Nam ra Bắc. Theo những chuyến tàu, những tài liệu mật đã được vận chuyển trót lọt trước họng súng kẻ thù. Để làm được điều này, những con tàu có lúc cải trang thành thuyền buôn mắm, khi lại là thuyền đánh cá với đầy đủ “thẻ ngư phủ”, “sổ thuyền bài”… “Nếu đi từ Hải Phòng, ra khỏi bến là ngư lôi, bom từ trường dày đặc. Thêm máy bay Mỹ quần thảo, tàu khu trục mỗi cây số vuông có đến 4 chiếc. Muốn đi trót lọt phải khởi hành từ 3 giờ chiều, chạy qua đảo Hải Nam, vòng xuống đảo Tam Á và vừa vặn đến đêm là vượt qua vĩ tuyến 17. Ngặt một nỗi, ra khu vực giữa biển Đông thường gặp bão. Có chuyến phải hứng đến 2 - 3 cơn bão, nhiều lúc thuyền trôi dạt suốt một ngày đêm. Tôi nhớ nhất là chuyến bị bão đánh dạt, thuyền trôi đến vĩ tuyến 17 ngay giữa ban ngày thì gặp địch. Thuyền treo cờ ba que, nhưng chúng vẫn lục soát rất kỹ. Bọn Mỹ trên các tàu tuần dương nói tiếng Việt rất giỏi. Sau khi bình tĩnh đối phó, địch không thấy gì khả nghi nên cho qua, trước khi đi chúng còn ném sang nhiều đồ hộp và nước ngọt. Nhưng điều buồn cười nhất là chúng có chiếc ca uống nước có đề dòng chữ: Hải quân Hoa Kỳ chặn đứng sự xâm nhập của Bắc Việt vào Việt Nam Cộng hòa” - ông Hoảnh kể.
Thuyền nhỏ, trang bị thiếu thốn, nhưng với tinh thần quyết tâm và quả cảm, nhiều lúc thuyền của ta phải đi vào giữa hạm tàu địch để nắm cho được mỗi thời điểm địch có loại tàu, loại máy bay hoặc vũ khí gì mới. Ông Hoảnh còn cho hay, có chuyến đi gần địch đến nỗi nghe được cả tiếng ra đa kêu u u trên đầu… Nguy hiểm là vậy mà ông kể nghe cứ nhẹ như không. Ngay cả chuyện 16 năm ông mới được thăng quân hàm và cho tới lúc về hưu, người cựu chiến binh có hơn 60 năm tuổi Đảng này mới chỉ là thượng úy, cũng vậy. Bây giờ về dưỡng già ở vùng đất trung du yên bình, ông lặng lẽ xem kỷ niệm về một thời lênh đênh trên biển phục vụ cho cách mạng như là một giai đoạn đáng nhớ trong cuộc đời.
QuânCIT
Nguồn tin: (theo baoquangnam.com.vn)